Làm Nhục Mua Vui Và Tàn Nhẫn Giải Khuây
11:14AM 04/04/2016, Góc tâm hồn
“Con người được sinh ra để vui. Nếu họ không vui được về cái đẹp của bản thân thì sẽ vui về cái xấu xí của người khác” (Franz Schönthan von Pernwaldt).
Hai bảo mẫu Lê Thị Đông Phương và Nguyễn Lê Thiên Lý bị tòa tuyên án 3 năm tù giam vì tội bạo hành trẻ em (ngày 20-1-2014), trước Tết Nguyên đán đúng 11 ngày. Đọc những phản ứng của cư dân mạng sau khi phiên tòa xảy ra, một loại bình luận làm tôi chú ý, bởi chúng có điểm khác. Ví dụ, bình luận này được 15.000 likes: “Lý cho rằng không biết hành vi của mình là phạm tội mà chỉ muốn các cháu bé được ăn uống đầy đủ, ngoan ngoãn anh cũng muốn hai em được ngoan”.
Một người khác phụ họa: “Giao hai cô này để mình trông giúp cho”.
Bình luận này cũng được 5.000 likes: “Ăn tết vui vẻ sau song sắt nhé hai em”.
Hai bảo mẫu Phương và Lý đã trở thành Internet meme, những tấm hình chèn chữ được cho là “vui nhộn” lan tỏa trên mạng như virút. Trở thành meme là minh chứng chắc chắn nhất cho sức hấp dẫn của một sự việc - nó chinh phục được cộng đồng mạng, làm họ thích thú và hào hứng để trình diễn sự “sáng tạo” của mình. Chế ảnh về hai cô bảo mẫu trở thành thời thượng, nó đóng góp cho “kho tàng văn hóa” mạng. Ai muốn sành điệu, người đó tham gia.
Các ảnh chế được một số tờ báo đăng lại một cách vô tư. Có tờ chạy một bài dài với các ảnh “xuất sắc” nhất. Trong một ảnh, một người đàn ông tóc tai bù xù giơ hai tay phát biểu: “Cô bảo mẫu này lên hình như thế, vậy là suốt đời sẽ không lấy được chồng nữa đâu nhỉ”. Tác giả bài báo xác nhận: “Câu nói đùa của dân mạng nhưng cũng là sự thật: vết nhơ này sẽ theo suốt cuộc đời của các bảo mẫu”.
'Trong một ảnh chế khác, vẽ hình hai cô bảo mẫu đầu cúi gằm, đứng trước tường, bên trên là dòng chữ: “Là người Việt Nam lương thiện, tôi muốn pháp luật trả tự do cho đôi này”, và bên dưới là dòng chữ: “Từ độ cao 1.000m”.
Cứ như thể có thể nghe được tiếng cười khoái trá của đám đông vọng ra.
Những niềm vui thiệt hại
Chúng ta nhìn thấy điều gì ở đây? Một sự hài lòng, sung sướng, hả hê trước số phận của hai bảo mẫu. Người Đức dùng chữ Schadenfreude để chỉ cảm xúc này, kết hợp hai chữ Schaden (thiệt hại) và Freude (niềm vui). Niềm vui về cái bất hạnh, cái không may, cái tai họa, người ta vui chính vì cái tai họa đó rơi vào đầu người khác.
Có thể gọi đó là một niềm vui độc địa. Nó có thể kín đáo (ta thầm khoái trá khi thấy tay hàng xóm bị đâm móp chiếc ôtô mới tậu), hoặc có thể được phô trương không ngần ngại, trở thành giễu cợt, chế nhạo, châm biếm, được thông báo thẳng cho đối phương mà không cần che giấu. Triết gia Arthur Shopenhauer cho rằng niềm vui này là cảm xúc ma quỷ nhất mà người ta có thể có: “Ghen tị là một phần của con người, nhưng thưởng thức niềm vui trên nỗi đau của người khác thì là ma quỷ”.
Những bình luận “vui vẻ” về hai bảo mẫu chỉ là phần nổi của tảng băng chìm khổng lồ. Vui khi người khác bị nhục và vui khi làm nhục người khác, đó là hai mặt của một đồng xu. Hiện tượng này phổ biến trong xã hội hơn là chúng ta tưởng và nhiều khi chúng ta tham dự vào nó một cách vô thức. Nó được thể hiện rõ nhất, công khai nhất, rộng khắp nhất, yêu thích nhất qua các chương trình truyền hình thực tế, khi nhiều thí sinh tối tối trở thành những chú hề bất đắc dĩ, thành trò cười cho hàng chục triệu người khắp cả nước.
Ngay từ năm 2002, thời truyền hình thực tế trên thế giới còn mới trứng nước, so với mức độ thô thiển của bây giờ thì một trời một vực, hai nhà nghiên cứu Brad Waite và Sara Booker đã đưa ra khái niệm humilitainment. Chữ này được cấu thành bởi hai chữ humilitation (làm nhục) và entertainment (giải trí), trong tiếng Việt ta có thể gọi là “làm nhục mua vui”.
“Làm nhục mua vui” trên truyền thông là một xu hướng của văn hóa đại chúng, nó tạo ra những đấu trường La Mã của thời hiện đại, tái tạo những triển lãm đầu thế kỷ 20 đưa người lùn và người dị tật để đám đông thưởng ngoạn như trong sở thú. “Làm nhục mua vui” kiếm tiền bằng cách khuyến khích người khác biểu diễn những trò lố bịch, hoặc đặt họ vào những tình huống đáng xấu hổ.
Và nhiều người sẵn sàng trả tiền để xem. Báo chí thường xuyên đăng tải tỉ mỉ các “tiết mục thảm họa”, các pha “dở khóc dở cười”, các màn “khó đỡ” của các chương trình truyền hình thực tế. Thậm chí, các tiết mục này trở thành một vũ khí lợi hại của một số sô, cả nhà sản xuất, người xem và truyền thông đều rất ý thức được điều này. Năm qua, VTC News xác nhận: “Những màn trình diễn thảm họa luôn là “đặc sản” của Vietnam Idol qua các mùa” và bình luận tiếp: “Khán giả đã được... “cười thả ga” với những tiết mục “thảm họa” và những khoảnh khắc thú vị của ban giám khảo...”.
Lưu ý là chỉ ba năm trước, cũng trang này còn băn khoăn: “Got Talent: Câu khách bằng cách xúc phạm thí sinh?” và lên án chương trình “cố tình chọn các tiết mục làm trò cười cho khán giả”. Đây là một trích đoạn từ một bài báo năm 2012: “...yếu tố câu khách đã khiến đạo diễn chương trình Vietnam’s Got Talent trở nên coi thường thí sinh và gia đình họ khi khoét quá sâu vào những ngây ngô của gia đình thí sinh Lê Nguyễn Quỳnh Anh khiến họ trở nên lố bịch trước hàng triệu khán giả truyền hình. Hẳn sau này thí sinh 15 tuổi này sẽ còn phải đối mặt với nhiều những lời bàn tán dị nghị về cách cư xử của mình cũng như của gia đình. Có cần hay không khi phải gây tổn thương với thí sinh và người nhà thí sinh như thế để câu khách?”.
Giờ đây, những băn khoăn trên đã không còn, nhường chỗ cho những “trận cười thả phanh”, những “phút giây thư giãn”. Những phản ứng và nhận xét “vô cùng hài hước” của các giám khảo, được thảy vào mặt thí sinh và được mọi người tán thưởng, thì như thế này: “Em hát nghiến răng rất là ghê và cách hát của em cứ như đang đay nghiến ai đó” (giám khảo Quốc Trung), “Hình tượng của em là Thỏ mà sao em hát như Cáo vậy!?” (giám khảo Quang Dũng, với thí sinh đeo nơ to như tai thỏ).
Vui vì “so sánh xuống”
Đằng sau niềm vui độc địa là diễn biến tâm lý gì? Vì sao người ta thích xem người khác bị làm nhục?
Một lý giải tới từ thuyết so sánh xã hội, được xây dựng từ những năm 1950 bởi nhà tâm lý học Leon Festinger. Theo thuyết này, ta hay có xu hướng đánh giá bản thân không qua những chuẩn khách quan, mà qua việc so sánh mình với người khác. Ta thấy giá trị của mình được nâng lên khi người khác vấp ngã. Đó cũng là lý do những người thiếu tự tin thì hay có cái niềm vui độc địa này hơn những người khác. Một học sinh giỏi có thể sẽ thương cảm cậu bạn bị điểm kém, còn tay học kém sẽ khoái trá khi thằng bàn trên còn bị điểm thấp hơn mình và cảm thấy bản thân mình cũng “không đến nỗi”. Người thiếu tự tin thường xấu hổ và ghen tị khi thấy mình kém cỏi hơn, khinh khỉnh và kiêu ngạo khi cho rằng mình hơn người khác.
Và giống như những người nghiện, hằng ngày họ đi tìm lỗi của người khác để được sống trong cảm giác của người đứng bên trên. Richard Smith, tác giả cuốn Niềm vui từ nỗi đau, viết rằng chúng ta thích xem những “pha khó đỡ” trên truyền hình thực tế vì chúng làm ta thấy rằng cuộc đời của mình cũng không đến nỗi tệ. “Nhìn xuống”, như người ta vẫn nói, sẽ làm ta nhẹ nhõm hơn, vì ta thấy “không ai bằng mình”. Thuật ngữ chuyên môn ở đây là “so sánh xuống” và theo Richard Smith, nó đem lại một niềm vui khoái trá.
Niềm vui độc địa có một người chị ruột: ghen tị. Ghen tị là nỗi đau khi người ta thấy người khác thành công hay gặp may, niềm vui độc địa là niềm vui khi người khác vấp ngã. Đằng sau sự ghen tị cũng là sự tự ti. Càng tự ti thì càng hay ghen tị, càng hay ghen tị thì càng hay cười trên nỗi đau của người khác.
Nhà văn Pháp thế kỷ 17 François de la Rochefoucauld viết: “Nếu bản thân chúng ta không có những khiếm khuyết thì chúng ta đã không khoái chí như vậy khi phát hiện ra những khiếm khuyết của người khác”. Nhà văn Mỹ Gore Vidal có một câu tự châm biếm nổi tiếng: “Mỗi lần một người bạn thành công, tôi lại chết ở trong lòng một ít”. Một câu khác, được cho là của nhà văn Somerset Maugham thì như thế này: “Sự thành công của ta không thôi không đủ, người khác phải thất bại nữa cơ”.
Đó cũng là lý do chúng ta dễ đồng cảm và yêu thương những người đã trải qua hoạn nạn hơn, chúng ta không ghen tị với họ. Họ không thể hơn ta được. Ngược lại, có điều gì không may xảy ra với người mà trước đó ta đã ghen tị với họ, ta sẽ thấy hả hê hơn.
Trong trường hợp của các bảo mẫu hay là hai người ăn cắp kính ở Thụy Sĩ, người ta còn hả hê vì cho rằng những người này xứng đáng bị như vậy. Lúc này, người ta có thể công khai trưng bày niềm vui độc địa của mình ra mà không phải che giấu nó hay xấu hổ về nó. Cảm xúc độc địa được khoác một cái áo là ủng hộ lẽ phải và công lý. Trong thực tế, tất nhiên, nó không liên quan gì tới công lý cả. Hãy hình dung một người bạn thân của bạn vi phạm pháp luật và chịu án tù. Bạn có thể buồn, đau xót, bạn có thể thấy hình phạt là hợp lý, nhưng bạn sẽ không hả hê vì công lý đã được thực thi. Lúc đó, nhìn những người hả hê, bạn sẽ thấy sợ hãi.
Liều thuốc tăng đô
Nếu niềm vui độc địa xảy ra khi chứng kiến kẻ khác gặp nạn, dù không nhất thiết góp tay tạo ra cái hoạn nạn đấy thì với nhiều người, điều đó không đủ. Họ cần một liều thuốc mạnh hơn, họ tàn nhẫn để giải khuây.
Trong số những clip bắt trộm, đánh trộm trên YouTube, một cái làm tôi chú ý. Khác những clip khác, ở đây người mất trộm - một thanh niên thấp và vạm vỡ - không đánh đập, không chửi bới, mà nhốt kẻ trộm trong một cái lồng gà lớn, nói một bài giáo huấn dài, rồi bắt anh ta hát hai bài. Kẻ trộm ngồi xổm trong lồng gà, đầu gối quá mang tai, vừa thút thít không ngừng vừa lí nhí và run run hát “anh yêu bình minh...”. Cậu thanh niên ngồi trên chiếc ghế nhựa đỏ bên cạnh, đánh nhịp một cách cường điệu. Clip kéo dài 4 phút và được hơn 600.000 lượt xem.
Phản ứng đầu tiên của tôi là bật cười, thậm chí còn khen thầm kẻ bắt trộm là sáng tạo. Chắc nhiều người cũng nghĩ giống tôi. Một người xem bình luận: “Rất khâm phục anh. Một đức tính nhân từ và vị tha và bản lĩnh”. Nhưng ngay sau đó tôi tự hỏi, liệu bắt nạn nhân phải hát hay múa, trong một trạng thái hoảng sợ, ở một tư thế quái đản, có phải là làm nhục không? Cái kỹ thuật này có phổ biến không, nó có kinh điển không? Tìm hiểu thêm, tôi phát hiện ra hành động của người bắt trộm này nằm trong một truyền thống lâu đời từ Đông sang Tây: dùng âm nhạc để làm nhục. Thật ra, nó được coi là một biện pháp tra tấn. (Tra tấn: theo định nghĩa của Tổ chức Ân xá quốc tế, được hiểu là hành vi cố tình và có hệ thống đem lại sự đau đớn về thể xác hay tâm lý trong một thời gian nhất định cho nạn nhân).
Cuốn Mặt tối của giai điệu: nhạc pop và bạo lực của hai tác giả Bruce Johnson và Martin Cloonan kể ra một loạt ví dụ. Trong cuộc nội chiến ở Nam Tư cũ, các tù binh người Croatia bị quân Serbs bắt hát quốc ca của Nam Tư hai lần trong ngày và bị đánh nếu họ không hát đủ lớn. Năm 2002, ở Zimbabwe, để trừng phạt việc bố một cô bé 12 tuổi tham gia phong trào dân chủ chống lại chính quyền, cô bé bị hiếp tập thể trong khi mẹ và các em cô chứng kiến và bị bắt hát các bài hát ca ngợi tổng thống Mugabe. Năm 2004, một sĩ quan Israel tại một trạm kiểm soát bắt một nhạc công Ả Rập chơi “nhạc gì đó buồn” trong khi những người lính khác đứng xung quanh chế nhạo, rồi mới cho anh ta đi qua.
Có hệ thống nhất là phát xít Đức, họ chọn ra các tù nhân biết chơi nhạc và lập ra các dàn nhạc ở các trại tập trung. Riêng trại khét tiếng Auschwitz có tới sáu dàn nhạc, mỗi dàn nhạc có tới hơn 100 nhạc công. Các nhạc công được hưởng một chế độ ăn uống tốt hơn, được tắm rửa hằng ngày và chừng nào họ còn chơi được nhạc thì không bị cái chết đe dọa. Một trong những nhiệm vụ của các dàn nhạc là chơi thể loại nhạc du dương hoặc quân nhạc trong khi những tù nhân khác bị dẫn vào lò thiêu.
Trong cuốn sách Chơi nhạc câu giờ (Playing for time), bà Fania Fénelon, một nhạc công ở trại Auschwitz, kể lại trải nghiệm cá nhân: “Chúng tôi phải chơi nhạc liên tục hàng giờ liền và trong thời gian đó, mắt chúng tôi dõi theo hàng ngàn người xếp hàng bước đều vào các lò thiêu và phòng hơi ngạt”. Tỉ lệ tự tử của các nhạc công cao hơn của tất cả các nhóm tù nhân khác trong trại.
Tác giả M.J. Grant cho rằng bắt nạn nhân hát hay múa là cách khẳng định tuyệt đối nhất, đắc thắng nhất quyền lực và vị trí thượng đẳng của kẻ tra tấn. Hơn bất cứ cú đấm đá nào, sự làm nhục này bẻ gãy lòng tự trọng, cái tôi và nhân phẩm của người kia. Hơn tất cả các bạo lực vật lý, sự làm nhục này chạm tới cái cơ bản nhất của cá nhân người kia. Khi người ta không còn được kiểm soát những âm thanh mình phát ra, phải đóng giả vui vẻ trong một trạng thái hoảng loạn, sự quy hàng là tuyệt đối. Bị chiếm đoạt giọng nói, phải nói giọng của người khác còn kinh khủng hơn là bị ra lệnh câm mồm. Nó tương đương việc lính Mỹ bắt các tù nhân Iraq trong trại Abu Ghraib thủ dâm để họ xem. Hay việc người theo đạo Hồi bị bắt phải tiểu tiện bên trong nhà thờ Hồi giáo của mình, như đã xảy ra trong cuộc nội chiến ở Nam Tư cũ. Nó bắt người ta tự tay xóa sổ danh dự của mình.
Chết cũng không thoát
Không phải ai cũng “may mắn” tóm được trộm trong nhà để có thể quay một clip có hơn nửa triệu người xem. Nhiều người bằng lòng với những cái khiêm tốn hơn. Hàng tháng trời, Nhâm Thị Hồng Phương, một trong hai người ăn cắp kính ở Thụy Sĩ, bị khủng bố điện thoại. “Cứ từ chiều, khi họ bắt đầu uống vào, họ gọi tới chửi bới, hay nhắn tin đe dọa, kéo dài tới tận đêm”. “Họ độc ác lắm anh ạ” - Phương nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại.
Cái ta nhìn thấy ở đây là sự tàn nhẫn khi người ta nhàn hạ: buổi chiều tan việc, ta tụ tập làm cốc bia và hành hạ người khác chơi. Ở trên mạng, tàn nhẫn giải khuây lại càng dễ. Nhiều khi nó chỉ mang hình dạng của nút share. Giữa tháng 6-2015, nữ sinh T., 15 tuổi, ở Đồng Nai, bị bạn trai tung clip sex lên mạng. Chỉ trong hai ngày, có gần 300.000 người xem, 18.000 likes, 4.000 lượt share, hàng ngàn bình luận, vừa đay nghiến vừa cợt nhả. “Hàng ngon thế!” và “Đẹp mặt chưa bé gái!” và “Bị tung clip là đáng, mới tí tuổi đã đua đòi”. Bố mẹ T. van xin cộng đồng mạng “hãy tha cho cháu”. Cộng đồng mạng lại càng đổ xô vào, cùng nhau khui ra trang Facebook của T. và bạn trai. Hàng ngàn người follow T., chuyền nhau các ảnh cá nhân, bình phẩm về cơ thể của T., gọi cô là bán dâm chuyên nghiệp, và rủa: “Chết đi đồ hư hỏng”.
Hai hôm sau, T. uống thuốc diệt cỏ tự tử.
Sau cái chết của T., người ta vẫn tiếp tục dè bỉu “không biết giữ mình thì bây giờ trách ai?” hoặc “có ai bắt nó phải chết đâu”. Người chết thì không nghe được, nên họ quay ra lăng nhục bạn trai cô: “Đ.M thằng chó... hên cho mày là gặp tao... gặp là mày chết mẹ mày với tao rồi” và “Loại này chết đi là vừa, sống chi cho chật đất”.
Một động tác đưa cái clip lên mạng chưa làm T. chết, nó chỉ buộc cô vào một cái cọc, nhưng hàng chục ngàn người xem và chuyền tay nhau, mỗi người đã góp một viên đá để ném cô tới chết.
Tôi cố gắng đi qua hàng trăm bình luận trên mạng, một công việc khó khăn. Xen lẫn giữa các câu lăng mạ kiểu “kiếp sau cho nó thành chó thiến” là trùng trùng những câu hỏi nhớn nhác “ai có clip hk cho xem với”. Trong nửa sau của tháng 6-2015, “nữ sinh 2000” là từ khóa được tìm nhiều nhất. Khác với các trường hợp bảo mẫu hành hạ trẻ, hai người ăn cắp kính, Hồ Ngọc Hà hay Dương Tường, ở đây họ tàn nhẫn không phải vì căm ghét mà để tiêu khiển.
Tàn nhẫn giải khuây không chỉ giới hạn ở cư dân mạng Việt Nam. Hiện tượng trolling, tạm gọi là đầu gấu trên mạng, lên mạng chỉ với mục tiêu làm nhục, miệt thị, quấy rối, khiêu khích người khác, đã trở thành nỗi đau đầu của nhiều quốc gia. Cuối tháng 3-2015, một phi công của Hãng hàng không Germanwings trong khi bay từ Barcelona (Tây Ban Nha) tới Dusseldorf (Đức) đã đâm máy bay vào vách núi tự sát, kéo theo cái chết của 150 hành khách, trong đó có nhiều người vùng Catalan của Tây Ban Nha, vốn có truyền thống đòi tự trị. Ngày hôm sau, trên Twitter đầy những tin ăn mừng. “Nếu có tụi Catalan trên đó thì vụ này hay đấy” và “Một máy bay đầy dân Catalan và Đức rơi ở Pháp. Ba lần thắng lớn!” và “Từ từ nào, có gì kinh khủng đâu. Tụi Catalan trên máy bay ấy mà, không phải người đâu”.
Một trò được các troll - đầu gấu mạng - ưa thích là vào các trang tưởng niệm người quá cố trên Facebook, lăng mạ gia đình người chết hay khách viếng thăm trang đó. Hiện tượng này được nhà nghiên cứu Whitney Phillips đặt tên là “RIP trolling”. Các troll không cần tiền, mục tiêu của họ là tiếng cười khoái trá, thu hoạch được từ những phản ứng của người bị làm nhục.
Tình hình tệ tới mức năm 2015, cả New Zealand và Anh đều ra một đạo luật chống troll, với mức án tới 2 năm tù giam. Bộ trưởng Tư pháp Anh Chris Grayling phát biểu: “Đây là những kẻ hèn nhát, chúng đầu độc cuộc sống của quốc gia. Điều luật này nhằm chống lại sự độc ác, nó đánh dấu quyết tâm của chúng ta ngăn chặn những kẻ du côn trên mạng”.
Theo tờ Telegraph của Anh, năm 2015, trong khuôn khổ Luật giao tiếp ác ý (Malicious Communications Act) của nước này, trung bình cứ mỗi ngày có năm người bị kết án vì đã gửi tin nhắn, email...với mục đích lăng nhục, khủng bố người khác, một con số cao gấp 10 lần so với thập kỷ trước.
Phải chăng chúng ta đang sống trong một văn hóa của căm ghét và làm nhục? Và nếu phải, những yếu tố gì tạo ra nó, tưới tắm để nó nảy nở?